Đây là những câu đối của Hòa thượng bổn sư chúng tôi, HT. Thích Thiện Siêu, làm lúc sinh tiền để cho các khuôn hội hoặc các chùa khi những nơi nầy đến xin. Câu nào có nguồn gốc rõ ràng thì chúng tôi ghi chú phía dưới, nếu chưa rõ lắm thì chúng tôi để nguyên.

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Cổng tam quan Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

Chánh điện Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

01. Nhập môn nghi xả dung thường tánh;

      Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm.

       入 門 宜 捨 庸 常 性
       到 寺 應 生 歡 喜 心

Tạm dịch:
 
          Vào chùa hãy sinh tâm hoan hỷ;
          Đến chùa nên bỏ tánh tầm thường.

02a.Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc;
        Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.
 
         金 地 築 叢 林 孤 月 光 含 空 即 色
         山 頭 興 寶 剎 群 巒 翠 鎖 古 猶 今

Tạm dịch:
 
            Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc;
            Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim.
                                           (Tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế – 1968)

02a. Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ,
        Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm.
           

           金 相 放 毫 光 遍 照 十 方 成 淨 土
           山 色 含 歲 月 圓 融 三 際 即 禪 心

Tạm dịch:

           Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh,
           Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền.

03. Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế.
      Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn.
 
         湖 畔 起 禪 關 教 演 真 乘 一 性 圓 明 還 本 際  
         山 頭 開 勝 會 聽 來 說 法 深 心 信 樂 悟 前 根

Tạm dịch:
 
        Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
        Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
           (Tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984)

04. Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa;
      Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ.

      含 龍 再 午 談 經 扶 律 出 真 詮 應 物 曲 陳 雟 燈 實 地
      報 國 重 光 撥 火 磨 磚 傳 祖 道 當 機 直 指 不 落 岐 途

Tạm dịch:
     
       Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật;
       Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia.
                                                                     (Câu đối bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969 )

05. Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới;
      Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm.

      謙 忍 有 餘 發 意 圓 成 三 聚 戒
      智 悲 無 礙 終 身 不 退 四 弘 心

Tạm dịch:

       Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới;
       Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm.
                  (Câu đối ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế)

06. Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ;
      Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương.

      指 圖 見 性 言 下 知 歸 誰 是 竿 頭 進 步
      撥 草 參 玄 聲 前 悟 旨 始 能 心 內 承 當

Tạm dịch:

      Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?
      Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương.
                        (Câu đối ở tháp chùa Báo Quốc – Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn – Nha Trang)

07. Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
      Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.

      廣 大 行 發 深 心 撥 拓 迷 雲 不 倦 誨 人 培 佛 種
      究 真 空 研 妙 旨 沖 開 慧 日 逢 場 卓 錫 振 宗 風

Tạm dịch:

      Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng;
      Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong.
                                       (Tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế)

08. Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật;
      Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa.

      御 嶺 清 風 拂 面 問 誰 能 作 佛
      屏 前 枯 木 待 人 知 遇 為 開 花

Tạm dịch:
     
      Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?
      Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa.
                         (Tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình – Huế)

09. Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới;
      Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.

      即 俗 而 真 處 處 盡成 花 藏 界
      背 塵 合 覺 心 心 圓 攝 大 乘 門

      Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới;
      Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn
                      (Tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm – Huế)

10. Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ;
      Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng.

       廣 開 方 便 門 善 闡 頻 伽 普 建 法 場 于 處 處
       香 遍 莊 嚴 土 滋 陪 道 樹 高 標 德 本 於 重 重

Tạm dịch:

        Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn;
        Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
                       (Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970)

11. Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn;
      Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.

 背 覺 合 塵 夢 裡 那 知 身 是 幻
 歸 源 得 旨 定 中 常 照 佛 猶 心

       Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn;
       Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
                                            (Tặng chùa Hương Sơn –Huế)

12. Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ;
      Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông.
     
      寶 印 宗 風 只 物 傳 心 一 句 話 頭 真 了 悟
      淨 光 高 德 隨 緣 化 道 懸  崖 散 手 盡 觀 通
     
      Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ;
      Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông.
                                                                                                    (Tặng chùa Bảo Tịnh – Phú Yên)

13. Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn;
      Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm.

      續 斷 起 晨 鐘 識 得 殲 塵 不 著 眼
      榮 枯 成 夢 幻 覺 來 世 界 總 唯 心

      Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt;
      Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm.
                                                         (Tặng chùa Tây Thiên – Huế)

14. Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
      Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông.

      人 依 法 法 依 人 動 靜 隨 緣 消 舊 業
      佛 即 心 心 即 佛 古 今 不 二 合 真 宗

Tạm dịch:

      Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
      Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
                                                                    (Tặng cho một số chùa)

15. Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt,
      Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng.

      後 滄 海 前 碧 江 水 月 波 光 相 映 月
      朝 金 經 募 玉 偈 鼓 鐘 聲 響 共 遙 興

Tạm dịch:

      Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
      Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.

16. Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách;
      Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn.

      找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客
      演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人

Tạm dịch:

      Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
      Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
                                    (Tặng Khuông hội Phật giáo An Dương – Huế)

17. Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
      Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.

      梵 宇 遍 莊 嚴 日 放 重 新 境 色
      蓮 臺 常 燦 爛 雲 開 顯 現 祥 光

Tạm dịch:

      Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc;
      Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang.

18. Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát;
      Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan.

      橋 樹 陵 空 七 寶 莊 嚴 光 佛 剎 
      叢 林 聳 秀 四 山 巒 碧 映 禪 關

Tạm dịch:

      Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật;
      Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền.

19. Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa;
      Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ.

      千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地
      三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途

Tạm dịch:

      Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác ;
      Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
                                         (Ba cặp đối trên – 17,18,19 – tặng chùa Bát Nhã – Phú Yên)

20. Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt;
      Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không.

      境 值 幽 深 野 草 閑 花 亡 歲 月
      山 居 曠 闊 晨 鐘 募 鼓 了 色 空

Tạm dịch:

      Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
      Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không.

21. Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo;
      Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân.

      慧 日 高 懸 普 照 眾 生 于 覺 道
      慈 風 普 扇 齊 資 萬 類 出 迷 津

Tạm dịch:

      Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác;
      Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê.

22. Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ;
      Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm.

      盡 捨 貪 瞋 癡 當 此 土 而 為 淨 土
      圓 修 戒 定 慧 即 凡 心 化 作 聖 心

Tạm dịch:

      Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
      Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm.
                            (Tặng cho chùa Diên Bình – Quảng Trị)

23. Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp;
      Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh.

      慶 值 幽 深 募 鼓 晨 鐘 亡 累 劫
      山 居 曠 闊 閑 花 野 草 了 三 生

Tạm dịch:
      
       Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ,
       Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh.
                                        (Tặng chùa Khánh Sơn – Huế)

24. Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng;
      Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung.

      拜 手 炷 壇 香 三 千 界 結 祥 雲 奉 獻 如 來 蓮 坐 上
      信 心 持 佛 號 百 八 聲 成 正 念 祈 生 淨 土 寶 蓮 中

Tạm dịch:

      Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa;
      Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen.

25. Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
      Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh.

      前 錄 水 後 青 山 梵 宇 輝 煌 佛 光 遍 照
      募 金 經 朝 玉 偈 塵 心 滌 盡 正 念 分 明

Tạm dịch:

      Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
      Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh.
                                                                        (Tặng chùa Hải Ấn – Nha Trang)

26. Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
      Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ.

      佛 不 離 心 動 靜 隨 緣 消 舊 業
      志 存 大 道 去 來 無 礙 悟 禪 機

Tạm dịch:

      Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
      Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.

27. Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn;
      Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong.

      智 慧 心 開 累 劫 昏 迷 從 截 斷
      慈 悲 念 起 多 生 業 障 自 標 亡

Tạm dịch:

      Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch;
      Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong.

28. Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn;
      Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông ?

      執 我 執 人 見 色 聞 聲 成 過 患
      修 悲 修 智 舉 心 動 念 任 容 通

Tạm dịch:

      Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi?
      Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông.
                         (Tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng – Huế)

29. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo;
      Tồn  lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh.

      離 四 句 絕 百 非 自 此 忘 言 真 有 道
      旋 六 根 淨 三 業 只 於 息 念 證 無 生

Tạm dịch:

      Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo;
      Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh.

30. Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo;
      Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ.

      隨 其 善 願 接 度 為 師 悅 眾 心 於 大 道
      施 無 緣 慈 作 不 請 友 破 疑 網 於 幽 途

Tạm dịch:

      Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn;
      Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê.

31. Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn;
      Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn.

      反 妄 歸 真 一 念 迴 頭 即 彼 岸
      尋 牛 訪 跡 三 關 參 透 入 空 門

Tạm dịch:

      Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác;
      Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không.
                                      (Tặng chùa Kim Quang – Huế)

32. Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu;
      Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu.

      法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 之 者 非 空 非 有
      心 原 寂 寂 即 乎 此 為 善 為 樂 離 乎 此 是 苦 是 憂

Tạm dịch:

       Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có;
       Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo.
                                                                           (Tặng chùa Bảo Lộc – Lâm Đồng)

33. Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch;
      Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương.

      法 水 長 流 處 處 潤 消 枯 縱 遇 石 盤 不 斷 曹 溪 甘 露 脈
      慈 風 普 扇 時 時 摧 熱 惱 設 遭 嵐 氣 仍 會 蓮 池 解 脫 香

Tạm dịch:

      Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ;
      Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì.

34. Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt,
      Nhất sanh kỳ khí túng cao phong;

      幾 度 功 勳 長 皓 月
      一 生 奇 氣 縱 高 峰

Tạm dịch:

      Mấy độ công huân dài trăng sáng;
      Một đời kỳ khí ngút tận núi cao.

35. Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt,
      Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân.

      此 地 有 緣 藏 淨 骨
      這 山 得 譽 遇 真 人

Tạm dịch:

      Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt;
      Núi này vinh dự gặp chân nhân.

36. Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại;
      Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.

      竹 聲 松 聲 鐘 磬 聲 聲 聲 無 礙
      山 色 水 色 煙 霞 色 色 色 皆 空

Tạm dịch:

      Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại;
      Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không.
                                                           (Đối ở chùa sư nữ Diệu Đức – Huế)

37. Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú;
      Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn.

      昔 日 已 曾 為 孝 子 為 明 君 捨 命 施 身 救 護 眾 生 出 迷 途 苦 趣
      今 生 又 復 棄 國 城 棄 珍 寶 降 魔 殺 賊 圓 成 正 果 開 覺 路 禪 門

Tạm dịch:

      Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ;
      Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền.   
                                                                                              (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

38. Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm;
      Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui.

      視 眾 生 如 赤 子 啟 悟 除 迷 悲 極 三 輪 廓 五 乘 而 垂 範 
      睹 法 界 若 空 花 旋 根 絕 相 智 圓 十 力 陶 萬 像 以 嚴 規

Tạm dịch:

      Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép;
      Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui.         
                                                                   (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

39. Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ,
      Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y.

      飯 熟 已 多 時 指 圖 見 性 言 下 知 歸 百 尺 竿 頭 重 進 步
      早 知 燈 是 火 撥 草 參 懸 聲 前 悟 旨 一 輪 明 月 夜 傳 衣

Tạm dịch:

      Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước;
      Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y. 
                                                                  (Đối nhà Tổ tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

40. Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
      Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.

      般 若 本 無 言 離 四 句 絕 百 非 應 化 隨 緣 說 無 量 無 邊 妙 法
      菩 提 先 有 願 證 三 明 具 五 眼 俱 圓 福 果 成 大 雄 大 力 慈 尊

Tạm dịch:

       Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
       Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.    
                                                         (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

41. Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng;
      Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ.
 
      至 道 不 在 言 詮 即 俗 即 真 頓 悟 肯 乘 當 運 水 梆 柴 皆 妙 用
      疑 情 一 番 勘 破 非 心 非 物 本 來 真 面 目 磨 磚 豎 指 總 禪 機

Tạm dịch:

        Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng;
        Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ. 
                                                                                                                           (Đối chùa Thiền Tôn)

42. Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc;
      Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si.

      永 棄 邪 思 歸 向 佛 陀 增 福 樂
      光 含 萬 像 仗 憑 慧 日 破 瞋 癡

Tạm dịch:

      Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc;
      Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si.

43. Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
      Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm.

      入 解 脫 門 設 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
      證 三 寶 地 常 行 慈 悲 喜 捨 無 量 心

Tạm dịch:

      Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ;
      Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện.
                                                 (Tặng chùa Vĩnh Quang)

44. Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật;
      Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền.

      理 絕 兩 邊 即 心 即 物
      道 無 頓 漸 非 實 非 權

Tạm dịch:

      Lý dứt hai bên, là tâm là vật;
      Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền.

45. Vệ già lam nhi thanh tịnh;
      Hộ Phật pháp dĩ trường tồn.

      衛 伽 藍 而 清 淨
      護 佛  法 以 長 存

Tạm dịch:

      Giúp già lam thành thanh tịnh,
      Hộ Phật pháp được trường tồn”.

46. Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa;
      Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn.

      真 俗 互 融 閱 第 一 義
      自 他 兼 利 入 不 二 門

Tạm dịch:

      Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất;
      Ta người cùng lợi, vào cửa không hai.

47. Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị;
      Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên.

      寶 地 莊 嚴 色 香 不 異
      佛 門 廣 大 出 入 隨 緣

Tạm dịch:

      Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
      Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên.

48. Nhập thử môn vô tham sân si mạn;
      Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi.

      入 此 門 無 貪 瞋 癡 慢
      登 是 地 有 雄 力 慈 悲

Tạm dịch:

      Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn;
      Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi.

49. Phứơc tuệ viên tu chơn Phật tử;
      Trí bi song vận đại từ tôn.

      福 慧 圓 修 真 佛 子
      智 悲 雙 運 大 慈 尊

Tạm dịch:

      Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử;
      Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ.

50. Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại;
      Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương.

      救 苦 尋 聲 觀 自 在
      慈 悲 願 力 焰 然 王

Tạm dịch:

      Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn;
      Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi.
                    (Câu đối tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh)

51. Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa;
      Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên.

      大 慈 大 悲 愍 眾 生 應 化 隨 緣 身 其 身 而 地 其 地
      大 喜 大 捨 濟 含 識 威 德 自 在 聖 中 聖 而 天 中 天

Tạm dịch:

      Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất;
      Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời

52. Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử;
      Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn.

      慈 眼 觀 眾 生 於 智 於 愚 是 同 一 子
      宗 風 成 梵 宇 是 空 是 色 入 不 二 門

Tạm dịch:

      Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả;
      Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai.
                                          (Tặng chùa Từ Tôn – Biên Hoà)

53. Tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi:

      Đạo thọ hoa khai hương mãn kính;
      Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào

      道 樹 花 開 香 滿 徑
      叢 林 月 現 鳥 歸 巢

Tạm dịch:

      Cây đạo nở hoa đường hương ngập;
      Rừng thiền trăng sáng tổ chim về.

54. Viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang – Khánh Hoà

      Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu,
      Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh.

      參 禪 修 透 祖 師 關 文 字 兮 為 重 在 拈 花 為 笑
      妙 悟 要 窮 心 路 絕 語 言 何 用 全 憑 扣 指 三 聲

Tạm dịch:

      Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng;
      Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.

55. Tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh

      Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung,  phún thủy cửu long tề mộc dục;
      Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh,  hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham.

      弘 施 大 願 玉 質 降 皇 宮 噴 水 九 龍 齊 沐 浴
      為 度 群 生 金 身 修 雪 嶺 含 花 百 鳥 兢 朝 參

Tạm dịch:

      Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
      Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.

56. Tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh

      Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo;
      Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm

      萬 法 一 如 即 俗 即 真 歸 覺 道
      德 同 法 界 談 空 談 有 轉 迷 心

Tạm dịch:

      Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
      Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.

57. Tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế.

     A –  Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
            Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm.

            順 覺 性 以 勳 修 永 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
            化 迷 投 而 解 脫 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心
 

Tạm dịch:

         Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn
         Diệt coĩ mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi.

     B – Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu;
           Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu.

          法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 去 者 非 空 非 有  
          心 常 寂 寂 即 乎 此 為 樂 為 善 離 乎 此 是 苦 是 憂
 

Tạm dịch:

          Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có;
          Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo.

58. Tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị.

        Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ;
        Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn.

         廣 開 智 慧 門 聽 法 聞 經 名 利 心 從 流 水 去
         治 平 清 良 地 修 身 行 善 是 非 言 逐 落 花 殘

Tạm dịch:

         Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
         Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn.

59. Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh;
      Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan.

      息 煩 惱 而 悟 菩 提 翠 柳 黃 花 非 外 境
      了 妄 緣 以 成 般 若 白 雲 明 月 豈 他 觀

Tạm dịch:

       Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác
       Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa.
 

                                                                         * * *

HT. Thích Thiện Siêu